hội ông hoàng mười

Lễ hội Đền ông Hoàng Mười: Điểm nhấn du lịch văn hóa tâm linh Nghệ An (17/08/2021) Hàng ngàn người dân và du khách về dự lễ hội Đền Hoàng Mười (17/08/2021) Thông tin các hoạt động diễn ra 3 tháng cuối năm 2018 và Quý I năm 2019 (17/08/2021) Ngày 10/10 là ngày lễ chính của ông Hoàng Mười, được tổ chức long trọng tại các đền thờ ông. Lúc này, rất nhiều du khách hành hương tới các địa điểm này để dâng cúng ông những vật lễ trang trọng và thánh kính. Tuy nhiên, nếu bạn đọc có nhu cầu đi lễ ông Mười, hãy lựa chọn những mẫu đồ lễ mang màu vàng. Mà ở Tu La môn khống chế ba mươi sáu cái châu nội, này cũng quy phục Tu La môn mười lăm đại gia tộc biết Hoàng Tiểu Long đã khống chế Tu La môn, lên làm Tu La môn môn chủ hậu, tự nhiên thấp thỏm bất an, cho rằng Hoàng Tiểu Long đón hội ra tay với bọn họ. Đền ông Hoàng Mười thuộc làng Xuân Am, nay là xóm 5, xã Hưng Thịnh, Hưng Nguyên. Đền được xây dựng từ thời Hậu Lê thờ các vị phúc thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ của người Việt Nam, trong đó nhân vật chính là ông Hoàng Mười, người có công hộ quốc bảo dân, được nhân dân khắp mọi miền Lễ hội ông Hoàng Mười. 15 bài Tóm tắt Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 của Ngô Gia Văn Phái Tóm tắt Hoàng Lê nhất thống chí Meilleur Site De Rencontre En Suisse Romande. Thần Tích05/06/2023Ông Hoàng Mười là vị Quan Hoàng thứ mười trong hàng Thập Vị Ông Hoàng của Tín ngưỡng Tam – Tứ hồng thấp thoáng trăng thanh,Nghệ An có đức thánh minh ra thiêng chống chỉ đất trờiĐánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh lượng về Ông Hoàng MườiSự tích Ông Hoàng MườiÔng Hoàng Mười giáng thế làm Lý Nhật QuangÔng Hoàng Mười giáng thế làm Nguyễn XíÔng Hoàng Mười giáng thế làm Lê KhôiÔng Hoàng Mười giáng thế làm Nguyễn Duy LạcQuan điểm về sự giáng thế của ông Hoàng MườiHầu giá Ông Hoàng MườiCác bản Văn Ông Hoàng MườiĐền thờ Ông Hoàng MườiĐền Chợ CủiMỏ Hạc Linh Từ – Nghệ AnLăng mộ Ông Hoàng Mười – Nghệ AnĐền Dinh Đô Quan Hoàng Mười – Hà TĩnhCác câu hỏi thường gặp về Ông Hoàng MườiSơ lượng về Ông Hoàng MườiNguồn gốc Con của Vua Cha Bát Hải Động ĐìnhDanh hiệuÔng Hoàng MườiÔng Mười Nghệ AnÔng Mười CủiPhủ/ nơi cai quản Địa phủTrang phục/Màu sắc Áo vàngĐền thờĐền Chợ Củi Hà TĩnhMỏ Hạc Linh Từ Nghệ AnĐền Dinh Đô Quan Hoàng Mười Hà TĩnhLăng mộ Ông Hoàng Mười Nghệ AnĐền thờ Cương Quốc Công Nguyễn XíSự tích Ông Hoàng MườiÔng Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần nhiều lần khác nhau để giúp dân phù Hoàng Mười giáng thế làm Lý Nhật QuangVề thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều. Có một sự tích cho rằng ông giảng xuống trần là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai Vua Lý Thái Tổ, cai quản châu Nghệ Nhật Quang, huỷ là Lý Hoảng , là con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ, mẹ là Linh Hiển hoàng hậu theo các nhà nghiên cứu là con của Lê Đại Hành và hoàng hậu Dương Vân Nga, hiệu là Bát lang hoàng tử. Như vậy, ông là anh em cùng mẹ với vua Lý Thái Nhật Quang nổi tiếng thông minh, 8 tuổi biết làm thơ, 10 tuổi tìm hiểu kinh sử. Ông được vua cha và hoàng tộc chăm lo dạy dỗ để sớm thành rường cột nước 1028, vua Lý Thái Tổ băng hà, anh cùng mẹ của Nhật Quang là Lý Phật Mã lên nổi ngôi, tức là Lý Thái Càn Phù Hữu Đạo thứ nhất 1039, Uy Minh Hầu Lý Hoàng được Lý Thái Tông cử vào châu Nghệ An lo việc thu thuế. Tại đây, Lý Nhật Quang làm việc cần mẫn, thu đủ số thuế được giao và không như các vị tiền nhiệm hà lạm thuế của dân nên được tiếng là thanh liêm, chính 1041, xét thấy Lý Nhật Quang là người tin cẩn, Lý Thái Tông phong ông làm tri châu Nghệ An – tước hiệu là Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang. Lúc này, Nghệ An là một vùng biên ải phía Nam của nước Đại Việt, việc quản lý còn lỏng lẻo. Nhiều cuộc nổi dậy ở địa phương có tính chất phản loạn, gây sự phiền nhiễu cho nhân dân, triều đình phải nhiều phen dẹp loạn. Nhưng sau khi Lý Nhật Quang được cử làm Tri châu, tình hình xã hội ở Nghệ An dần dần ổn định, kỷ cương phép nước được lập lại. Ông đã cho làm sổ sách thống kê hộ khẩu, nhận định. Theo sử gia Phan Huy Chủ “Đời Lý, việc kiểm soát hộ tịch rất là nghiêm ngặt. Dân đinh nào đến 18 tuổi thì biên vào sổ bìa vàng, gọi là Hoàng nam, đến 20 tuổi gọi là Đại Hoàng nam”. Những biện pháp quản lý xã hội của Lý Nhật Quang cùng với sự độ lượng và tư tưởng thân dân của Ông dần dần đã cảm hóa và quy phục được tất cả mọi tầng lớp nhân dân, làm cho vùng đất vốn phức tạp đã trở nên thuần hậu và thống ấy Lý Thái Tông đã có ý định đánh chiếm Chiêm Thành, vua giao Lý Nhật Quang chuẩn bị làm một hoành doanh dọc Sông Bà Hoà nay thuộc huyện Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hoá gọi là trại Bà Hoà. Năm 1044, Lý Thái Tông cất quân đánh Chiêm Thành, nhờ có Trại Bà Hoà kiên cố và đầy đủ lương thực, quân sĩ yên tâm chiến đấu. Trong trận chiến lớn bên sông Ngũ Bồ, tướng Quách Gia Di chém đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu. Khi vua Lý Thái Tông khải hoàn đến trại Bà Hoà, Lý Nhật Quang nghênh đón nhà vua và quân sĩ trọng thể, Lý Nhật Quang được vua phong từ tước Hầu lên tước Nhật Quang hết sức coi trọng việc phát triển kinh tế, khuyến khích, hướng dẫn nhân dân mở mang nghề nghiệp, khai thác mọi tiềm năng của vùng đất xứ Nghệ. Cùng với việc chiêu dân, khai hoang, lập ấp, Ông còn dạy cho dân chúng nghề nông tang, dệt lụa, dệt vải… Ông trở thành tổ sư của nhiều ngành nghề thủ công nghiệp ở Nghệ An. Với cái nhìn có tính chiến lược, dưới con mắt của một danh tướng tinh thông binh pháp, uyên thâm phật pháp, Lý Nhật Quang đã chọn vùng Bạch Đường nay gồm 3 xã Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn – huyện Đô Lương- là nơi có vị trí trung tâm của cả châu, công, thủ đều thuận lợi- để xây dựng lỵ sở. Vùng Phật Kệ vốn trung tâm Phật giáo của châu Nghệ An chuyển lên vùng Bạch Đường cách khoảng 5km ngược dòng sông Lam. Từ đây, Lý Nhật Quang đã ban hành và cho thực hiện nhiều chính sách tiến bộ và táo bạo để mở mang phát triển sản xuất. Các vùng Khe Bố, Cự Đồn Con Cuông, Nam Hoa Nam Đàn, Hoàng Mai Quỳnh Lưu, Công Trung Yên Thành, Vinh, Nghi Xuân, Kỳ Anh Hà Tĩnh… là do Ông chiêu dân lập ấp và sử dụng tù binh để khai khẩn đất hoang. Ông đã cho mở 2 con đường thượng đạo 1 từ Đô Lương ra Thanh Hoá rồi ra Thăng Long, 1 từ Đô Lương lên Kỳ Sơn. Ông cho đào và nạo vét các đoạn sông Đa Cái ở Hưng Nguyên, kênh Sắt ở Nghi Lộc; kênh Son, kênh Dâu ở Quỳnh Lưu. Ông còn khởi xướng việc đắp đê sông Lam. Không những quan tâm đến đời sống vật chất cho dân, Ông còn rất quan tâm đến đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, cho xây dựng nhiều chùa thờ Phật để nhân dân đến sinh hoạt văn hoá tâm linh. Có thể nói, những việc làm có tính chất mở đầu ở một vùng biên viễn của Lý Nhật Quang đã đạt đến tầm cỡ của một nhà chiến lược, vừa an dân, vừa tạo dựng tiềm năng, thế mạnh để giữ gìn bờ Minh Vương Lý Nhật Quang đã góp phần giải quyết ổn thoả sự xung đột trong nội bộ Chiêm Thành, đồng thời tạo dựng mối quan hệ hoà hiếu giữa Chiêm Thành với Đại tích đền Quả Sơn đã ghi rõ“Ngài ở châu 19 năm, trừng trị kẻ gian, khen thưởng người lành, khai khẩn đất hoang, chiêu mộ lưu dân, bọn vô lại phải im hơi, người dân về với Ngài được yên nghiệp. Ngài thường qua lại vùng này, vùng khác, dạy nghề làm ruộng, trồng cây cối, nuôi gia súc, có nhiều chính sách lợi cho dân, làm cho nhân dân đoàn kết. Người dân đến kiện tụng thì lấy liêm, sỹ, lễ, nghĩa giảng dạy làm cho tự giác ngộ, ai nấy đều cảm hoá, không bàn đến chuyện kiện cáo nữa. Mọi người đều gọi Ngài là Triệu Công”.Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết về Lý Nhật Quang như sau “Mùa thu, tháng 7 năm Giáp Thân, 1044, vua Thái Tôn Hoàng đế đem quân vào thành Phật Thệ, bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung những kẻ nào giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên. Sai sứ đi khắp các hương ấp, phủ dụ nhân dân. Các quan mừng thẳng trận. Tháng 8, đem quân về. Đến hành dinh Nghệ An, gọi Uy Minh Hầu là Nhật Quang đến để an ủi và trao tiết việt cho trấn thủ châu ấy, gia phong tước vương. Trước đây vua uỷ cho Uy Minh thu thuế châu Nghệ An và sai đặt trại Bà Hoà cho trấn được bền vững; lại đặt điểm canh ở các nơi, chứa lương thực đầy đủ, cái gì cũng vừa ý vua, cho nên được tước phong như thế.”Hiện vẫn còn nhiều giả thuyết về cái chết của Lý Nhật Quang. Thần phá đền Quả Sơn viết rằng Lý Nhật Quang hi sinh trong trận chiến với giặc, bị chém ngang cổ nhưng đầu không lìa, đến núi Quả thì ngựa quỵ xuống, ông qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm Việt điện u linh tập chép rằng một tối ông thấy ba con quạ bay 3 vòng quanh vương rồi sà vào lòng thành tờ giấy trắng. Ông thiếp đi thì gặp thần sao Vũ Khúc mời về trời làm quan. Vương không bệnh mà Thái Tông phong Lý Nhật Quang từ tước Hầu lên Tước Vương. Nhân dân suy tôn Lý Nhật Quang là “Thượng Thượng Thượng Đẳng thần”.Câu đối tại đền Quả khái quát được công trạng của ôngHiển hách thần linh, hương khói miếu đền lưu vạn đại,Lừng danh tông tộc, núi sông ghi nhớ đến nghìn được nhân dân vùng Nghệ Tĩnh tôn làm bậc Thánh và lập đền thờ phụng tại nhiều Hoàng Mười giáng thế làm Nguyễn XíSự tích được lưu truyền nhiều nhất là Ông Mười giáng thể làm Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh cũng chính là nơi quê nhà.Nguyễn Xí 1396-1465 là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, sinh ra ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, gốc người làng Cương Giản, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên của ông còn được đặt cho một số con đường ở thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương nội Nguyễn Xí là Nguyễn Hợp, cha là Nguyễn Hội. Nguyễn Hợp dời nhà đến sống tại làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Tại đây Nguyễn Hợp đã cùng Nguyễn Hội khai dân lập ấp, mở mang nghề làm muối. Nguyễn Hội sinh hai con trai Nguyễn Biện và Nguyễn Xí. Cha con Nguyễn Hội và Nguyễn Biện thường chở muối ra bán ở vùng Lương Giang, huyện Thiệu Hoá – Thanh Hoá, do đó rất thân quen với Lê Lợi khi đó là phụ đạo ở Lam lên 9 tuổi 1405, Nguyễn Xí đến gặp Lê Lợi lần đầu. Cùng năm ấy cha ông bị hổ vồ chết tại quê nhà Thượng Xá, ông theo anh đến làm người nhà Lê Lợi. Khi hơi lớn, Nguyễn Xi đã tỏ ra vũ dũng hơn người, được Lê Lợi quý như con cháu trong Lợi sai ông nuôi một đàn chó săn 100 con. Ông chia cơm, dùng hiệu chuông dạy chó rất tài, cả đàn răm rắp nghe theo lệnh. Lê Lợi cho rằng ông có tài làm tướng nên sai ông quản đội Thiết đột thứ 1418, Lê Lợi xưng Bình Định vương phát động khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Xí cùng tham gia, lúc đó ông 22 tuổi. Ông thường theo hầu hạ bên Lê Lợi những lúc hiểm nghèo ở núi Chí 24 tháng chạp năm Nhâm Dần 6/1/1423, quân Minh do Mã Kỳ chỉ huy từ hai phía đánh vào Quan Du Quan Hoa, Thanh Hoả nghĩa quân của Lê Lợi phải rút ra Sách Khôi Nho Quan, Ninh Bình. Một tuần sau quân giặc lại huy động một lực lượng lớn, từ thành Đông Quan đến bao vây nghĩa quân ở Sách Khôi. Lê Lợi nhận định “Giặc bốn mặt bủa vây – đây là nơi mà binh pháp gọi là đất chết tử địa, đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết”. Lê Lợi động viên quân sĩ liều chết phá vây, tìm cách thoát khỏi đất chết. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Xí và các tướng Phạm Vấn, Lê Triệu, Lê Hào, Lê Lĩnh, Trương Lôi, Trịnh Khả, Lê Trị, nghĩa quân đã đánh một trận hết sức ngoan cường, đẩy lùi cuộc vây quét của giặc Minh. Nghĩa quân đã giết chết tả tham tướng Phùng Quý và hơn nghìn tên địch, bắt hơn 100 con ngựa. Trận Sách Khôi là một trận đánh oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Xí là người có công lớn trong trận đánh này và lúc đó ông mới 26 8 năm 1426, sau khi làm chủ từ Thanh Hoá đến Thuận Hoá, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cảnh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bi hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan Thăng Long, Hà Nội.Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Quân Vân Nam chạy về cố thủ ở thành Xương Giang, Vua Minh lại sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chinh, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí cùng Đinh Lễ đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nguyễn Xí bắt được thám tử của Vương Thông, ông biết Thông định chia dường, hẹn nhau khi pháo nổ thì quân mặt trước mặt sau cùng đánh úp Lê Triện. Ông và Đinh Lễ bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động, rồi đốt pháo giả làm hiệu cho quân Minh tiến vào. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Lợi được tin thắng trận liền tiến đại quân ra bắc, vây thành Đông Quan. Nguyễn Xí được lệnh cùng Đinh Lễ mang quân vây phía nam những năm hoạt động trên quê hương xứ Nghệ, trận đánh lớn mà Nguyễn Xí tham gia là trận Khả Lưu – Bồ Ải đầu năm 1425. Trong trận đánh này, nghĩa quân đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng trong sinh lực địch, giết chết tướng tiên phong là đô tỷ Hoàng Thành, bắt sống đô ty Chu Kiệt và trên tù binh. Sau trận thắng ấy, nghĩa quân bắt đầu vây hãm thành Nghệ An và cùng với nhân dân nhanh chóng giải phóng các châu huyện, biến phủ Nghệ An thành đất đứng chân của cuộc khởi nghĩa. Từ căn cứ địa Nghệ An, nghĩa quân tiến ra giải phóng Diễn Châu, Thanh Hóa, tiến vào giải phóng phủ Tân Bình, Thuận Hoá, làm chủ một vùng rộng lớn từ đèo Tam Điệp đến đèo Hải Vân. Đến cuối năm 1425, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc sâu 9 năm Bính Ngọ 1426, nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu mở cuộc tấn công ra các lộ phía Bắc, đưa cuộc chiến tranh giải phóng lên quy mô toàn quốc và giành thắng lợi quyết đoạn chiến dịch lớn sau đó mang ý nghĩa chiến dịch trọng yếu đưa đến thắẳng lợi vẻ vang của cuộc chiến tranh yêu nước. Đó là các chiến dịch Tốt Động – Chúc Động đầu tháng 11/1426, chiến dịch vây hãm và dụ hàng thành Đông Quan từ 22/11/1426 – 10/12/1427. Trong ba chiến dịch lớn đó, Nguyễn Xí đều có mặt và đã góp phần tạo nên thắng lợi chung của quân dân ta. Có thể nói đây là giai đoạn thành công và cống hiến nhiều nhất của Nguyễn Xí, là đỉnh cao trong sự nghiệp chống quân Minh xâm 2 năm 1427, tướng Minh là Phương Chính đánh úp Lê Triện ở Từ Liêm, Triện bị tử trận. Tháng 3, chủ tưởng của giặc Minh là Vương Thông, thân dẫn một đạo binh tinh nhuệ, từ trong toà thành Đông Quan đang bị quân ta bao vây, nống ra tập kích vào doanh trại Tây Phù Liệt Ngũ Hiệp – Thanh Trì của nghĩa quân Lam Sơn trên vành đai bao vây phía nam. Tướng Nguyễn Xí cùng tướng Đinh Lễ, được lệnh dẫn hơn 500 quân Thiết Đột, kéo nhanh đến tiếp ứng. Vương Thông đang chưa đánh nổi Tây Phù Liệt, thấy bên ta có viện binh, vội thu quân chạy lộn về thành. Đang đà đánh hăng, Nguyễn Xí và Đinh Lễ lập tức thúc voi trận, dẫn đầu nghĩa quân, đuổi theo. Đến địa phận Mi Động nay là phường Mai Động, quận Hai Bà Trưng, khoảng chỗ bây giờ vẫn còn địa danh Đống Cầu Voi, kẻ địch thấy nhóm quân truy sát của ta quả là chỉ có thưa ít người, bèn quay lại, dùng số đông áp đảo, vây đánh. Trận chiến không cân sức diễn ra ngay trên cảnh đồng lầy. Voi trận xoay sở giữa bùn nước rất khó khăn, lại thêm quân địch bắn tên, phóng giáo như mưa, cả Nguyễn Xí lẫn Đinh Lễ đều bị rơi khỏi bành voi. Giặc ủa ngay tới, bắt đó, tin dữ báo về quân doanh Bồ Đề Gia Lâm của chủ tướng nghĩa quân Lam Sơn, Bình Định vương Lê Lợi tướng Đinh Lễ đã bị giặc Minh sát hại. Còn tướng Nguyễn Xí thì không rõ số phận ra sao… Liền đấy, mấy đêm ròng, trời đổ mưa tầm tã. Giữa một đêm mưa to gió lớn như thế, bỗng lại có tin tướng Nguyễn Xí đã trở về đến quân doanh. Thì ra, bị giặc giam trong ngục kin, Nguyễn Xí đã thừa lúc gió mưa tối trời trốn thoát. Bình Định vương Lê Lợi cả mừng, vừa vỗ án, vừa thốt lên những lời tự đáy lòng “Sống lại! Thật là sống lại!”Từ buổi “sống lại” ấy, vị tướng đã một lần sống chết gắn bỏó với thành đô Đông Kinh ấy, còn tiếp tục lập công đánh giặc – đặc biệt là ở trận Xương Giang Bắc Giang, sát cánh cùng các tướng Lê Sát, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chủ với lực lượng quân Thiết Đột cùng 4 thớt voi dưới cờ, bắt được Hoàng Phúc, Thôi Tụ là đạo viện binh sót lại sau khi Liễu Thăng bị chém, kết thúc vẻ vang chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang vào cuối năm 1427 – quét sạch giặc Minh xâm lược khỏi bờ cõi. Đó là trận thắng lợi kết thúc khởi nghĩa Lam xuân Mậu Thân 1428 đại thắng, Lê Lợi lên ngôi Thuận Thiên hoàng đế. Theo vua Thái Tổ nhà Lê tiến nhập kinh đô giải phóng, tướng Nguyễn Xí một lúc được nhận “quốc tính họ Lê, danh hiệu “Khai quốc công thần”, phong chức Long hổ tướng quân Suy trung bảo chính công thần, đồng thời chính thức sống và làm quan ở giữa đô thành Đông 1429, khi khắc biển công thần, Nguyễn Xí được xếp hàng thứ 5, được phong làm huyện 1433, Lê Thái Tổ băng hà, ông cùng với quan Đại tư đồ Lê Sát – đứng đầu nhóm đại thần nhận ủy thác phò tá thái tử Lê Nguyên Long khi ấy 11 tuổi lên ngôi – Nguyễn Xí trở thành phụ nhiếp chính triều đình, và từ năm 1437 làm quan Tham tri chính sự của vua trẻ Thái Tông nhà Lê ở Đông Kinh. Trong cuộc khủng hoảng triều chính những năm cuối thời Lê Thái Tông, các đại thần tranh giành, hãm hại lẫn nhau, Nguyễn Xí may mắn được yên lành, nên khi vua Thái Tông mất bất đắc kỳ tử năm 1442 ở “Vụ án Lệ Chi Viên”, để lại ngai vàng cho hoàng thái tử Lê Bang Cơ mới chưa đầy 2 tuổi, thì người được nhận di chiếu, ủy thác việc phò ấu chúa kể vị ngôi vua – trở thành hoàng đế Lê Nhân Tông – chính là Nguyễn Xí, cùng với Thiếu bảo, Tham tri chính sự Trịnh Khả, Nhập nội Đại đô đốc Đinh 1437 đời Lê Thái Tông, ông làm chức quan chính sự kiêm Tri từ 1442, vua Lê Thái Tông mất, ông cùng Trịnh Khả, Lê Thụ nhận di chiếu phò vua Lê Nhân 1445, vua Nhân Tông còn nhỏ, Nguyễn Thái hậu nhiếp chính, ông làm Nhập nội đô đốc, nhận lệnh cùng Lê Thận mang quân đi đánh Chiêm Thành, nhưng chưa đi thì bị quyền thần tố cáo tội lỗi nên bị bãi chức. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép việc năm 1445 “Nhà vua còn nhỏ tuổi, hoàng thái hậu coi giữ triều chính, cất nhắc những người thân thích họ hàng lên làm việc. Vì thấy Nguyễn Xí không ăn cánh với mình, nên ghét bỏ ông. Bấy giờ cỏ việc đi đánh Chiêm Thành. Xí đã vâng lĩnh mệnh lệnh, nhưng chưa đi, bị kẻ quyền thần tố cáo, buộc vào tội chết”. Rất may là ngay khi ấy “Triều đình cho rằng Xí là bậc kỳ cựu, có công lao, nên chiếu cố theo bát nghị trong luật lệ”. Vì thế, Nguyễn Xí đã chỉ bị cách chức Nhập nội Đô đốc hàm chánh nhị phẩm đuổi về quê quán Thượng Xá – Chân Phúc nay là Nghi Hợp – Nghi Lộc – Nghệ An, tạm mất quyền làm “người Đông Kinh” trong 3 năm. Năm 1448 Nguyễn Xí được phục hồi chức thiếu 1448, tình hình triều chính dần dần ổn định hơn, mà các bậc công, cựu đại thần thì cũng ngày càng thưa vắng, cho nên, giữa cung đình Đông Kinh, lại thấy Nguyễn Xí xuất hiện. Và còn với cả tư thế đĩnh đạc hơn trước được dự vào hàng “Tam Thiếu”, phụ trách chính quyền cấp cao, với chức vụ Thiếu bảo, Tri quân dân sự hàm tòng nhất phẩm.Trải tiếp mười năm phục vụ triều vua Lê Nhân Tông ở kinh đô, Nguyễn Xí đã được vinh thăng tới chức Thái bảo, dự vào hàng “Tam Thái” hàm chánh nhất phẩm, thì bất ngờ xảy ra vụ “đảo chính cung đình” trọng đại Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết em trai 19 tuổi – chính là hoàng đế Lê Nhân Tông – để cướp ngôi,Sự biến xảy ra vào một đêm tháng mười năm Kỷ Mão 1459, anh Nhân Tông là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết vua lên ngôi, đặt niên hiệu Thiên Hưng. Từ đấy cho đến tháng sáu năm Canh Thìn 1460 là 8 tháng tang tóc và bị thương của triều đình Đông Kinh. Ngụy vương và loạn thần thì đắc chí, còn các trung thần nghĩa sĩ thì nấu mình, ẩn nhẫn, lo và chờ dịp khôi phục quốc thống. Thái bảo Nguyễn Xí ở trong số đó. Ông xin nghỉ việc quan, lấy cớ già lão đau mắt đến mù, ở yên trong dinh. Nhưng bọn phản thần không lấy thế làm yên, ra sức rình mò, kiểm soát, khiển bậc tôi trung phải rất vất vả đối phó. Sự tích dòng họ Nguyễn ở Nghi Hợp Nghi Lộc – Nghệ An kể rằng Có lần bọn phản tặc đã dùng đến cách vô cùng độc ác để thử xem có phải Nguyễn Xí mù thật hay không. Chúng chờ lúc vị lão thần sắp bước chân qua bậc cửa, thì lén đem đặt đứa con nhỏ – chưa đầy một tuổi – của ông ngay dưới thềm. Nguyễn Xí biết rõ, nhưng đành cắn răng dẫm chết con, để chúng tin chắc là mình thật sự bị mù!Nhờ giỏi ngụy trang như thế, mà Nguyễn Xí trở thành được người đứng đầu nhóm thần nghĩa sĩ, cẩn trọng bí mật soạn sửa cuộc “phản đảo chính” diệt trừ kẻ tiếm trung ngôi Lê Nghi Dân và bè lũ vây cánh, đứng đầu là các tên Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng… Các đại thần Đỗ Bí, Lê Thụ, Lê Ngang mưu lật đổ vua Thiên Hưng bị bại lộ đều bị giết. Nguyễn Xí bàn mưu với Lê Lăng con Lê Triện, Lê Niệm cháu nội Lê Lai lật đổ Nghi Dân lần nữa. Và thời cơ đã đến “Ngày 6 tháng sáu năm 1460 – Khâm định Việt sử thông giảm cương mục chép – các đại thần là Thái bảo Lê Nguyễn Xí và Lê Đinh Liệt, Nhập nội Kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự Lê Lăng, Nhập nội Đại hành khiến Lê Vĩnh Trường, Xa kỵ vệ đồng Tổng tri Lê Niệm, Ngự tiền hậu quân Tổng trị Lê Nhân Thuận, bàn định với nhau rằng “Lạng Sơn vương Nghi Dân câu kết với tên Đồn, tên Ban, dám làm việc giết vua cướp ngôi, tức là hạng ác nghịch nhất nước. Chúng ta,mang danh nghĩa là những bầy tôi có công lao với kẻ giết vua cướp ngôi, thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng được nữa”. Sau khi ở trong triều lui ra, các đại thần đều ngồi cả tại nhà Nghị sự. Lê Nguyễn Xí đứng đầu, xướng xuất việc nghĩa, trước hết giết tên Đồn, tên Ban ở ngay trước nhà Nghị sự, sau đóng các cửa thành lại, rồi sai Nhân Thuận thống lĩnh cấm binh, bắt đảng phản nghịch là lũ Trần Lăng hơn một trăm người, đều giết hết. Các đại thần định nghị truất Nghi Dân làm Lệ Đắc hầu, bắt phải thắt cổ tự đó thì đến việc lập lại trật tự triều chính. Vẫn có Nguyễn Xí là người đứngđầu, các đại thần đã tìm được hoàng tử Lê Tư Thành trong hoàng tộc nhà Lê và quyết định đưa lên ngôi. Ngày thứ ba – tính từ hôm nổ ra cuộc diệt trừ nghịch đảng – mồng 8 tháng sáu 1460, Lê Tư Thành được làm lễ đăng quang ở điện Tường Quang trong hoàng thành Đông Kinh, chính thức ban bổ niên hiệu Quang Thuận – niên hiệu sẽ còn được dùng trong 10 năm đầu của đại cuộc trị vì 38 năm, với nhiều thành công, của vị hoàng đế tài danh Lê Thánh hiểu vì sao, sau đấy và từ đấy, Nguyễn Xí được hoàng đế Lê Thánh Tông hết sức nể vì, tưởng thưởng. Trong tháng sáu năm 1460, từ vị trí là Thái bảo, Nguyễn Xí đã được lên hàng Thái phó đứng thứ hai trong “Tam Thái”, kèm hai chữ tin cẩn “Nhập nội” và giữ chức Bình chương quân quốc trọng sự tức Tể tưởng, với tước phong Ả quận hầu. Đến tháng Mười năm ấy chính thức luận công khen thưởng, tước hiệu của Nguyễn Xí đã được vinh thăng thành Qùy Quận công tức Quận công phủ Quỳ Châu. Ngự chế của nhà vua ban cho Nguyễn Xí, dệt gấm thêu hoa chẳng những công lao mà còn cả tính cách người lập công “Xướng đại nghĩa để trừ kẻ hung tàn, ngươi đã có công như công yên được nhà Hán; lấy ngôi thượng công mà ban phong thưởng ngươi đáng được cải vinh dự cắt đất phân phong… Giữ mình có đạo, hồn nhiên như viên ngọc không lộ sáng, nghiêm sắc mặt ở triều, lẫm liệt như thanh kiếm mới tuổi… Lúc nước có biến phi thường, chỉ mình ngươi lo cứu vãn. Người thực là bề tôi trung ái của ta…”.Được thừa nhận là “bề tôi trung ái”, không chỉ của Lê Thánh Tông, mà còn trải liền bốn đời hoàng đế triều đại Lê sơ từ Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông đến Thánh Tông, trong vòng hơn 30 năm làm người Đông Kinh, như Nguyễn Xí, quả là không dễ dàng. Những danh thần cũng từng là “bề tôi trung ái” và “bằng vai phải lứa” với Nguyễn Xí, thì chẳng hạn như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Chủ… ngay từ đời Thái Tổ đã phải “ngậm cười nơi chín suối”. Các Đại tư đồ, Đại đô đốc như Lê cũng bị nạn “tru di tam tộc” trong buổi giao thời Thái Tông – Nhân Tông. Và chỉ mới đây thôi, không khéo trong việc mưu đồ trừ diệt phe cánh Lê Nghi Dân, nhóm các đại thần Đỗ Bí, Lê Ê, Lê Ngang, Lê Thụ, cũng đã bị sát hại!Càng không còn mấy ai nữa, từng cùng thời với Nguyễn Xí, từ thuở “nằm gai nếm mật”, “vào sinh ra tử” trong suốt 10 năm đương đầu với lũ quan quân nhà Minh “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống hầm tai vạ” hết lâm cảnh “Linh Sơn lương cạn mấy tuần, Khôi Huyện quân không một lữ”, lại xông pha “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”, đặc biệt là những dũng tướng đã cùng Nguyễn Xí đánh trận “Ninh Kiều máu chảy thành sông, Tốt Động thủy phơi đầy nội”…Năm 1462, con Nguyễn Xí là Nguyễn Sư Hồi không hợp cánh với một số đại thần nên làm thơ vứt ra đường để vu cho họ làm loạn nhưng việc bị phát giác. Vua Thánh Tông nể công lao của ông nên không trị tội Sư đó ông được phong chức Nhập nội hữu tướng quốc. Năm 1463 lại được phong chức thái truyền khi trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu 1464, Nguyễn Xí ốm nặng, Lê Thánh Tông sai sứ mang một đạo dụ đến nhà riêng thăm hỏi và biểu quan tiền để thuốc thang. Trong đạo dụ có đoạn “Công của khanh, trẫm chưa báo đền mà bệnh của khanh sao đã trầm trọng. Nghĩ đến nước, cơm cháo khanh phải cố ăn. Lo cho trẫm, thuốc thang khanh phải cố chữa”.Tháng 10 năm 1465, Nguyễn Xí qua đời, thọ 69 tuổi, Lê Thánh Tông rất thương tiếc cho đưa linh cữu về quê an táng, truy tặng hàm Thái sư Cương quốc công, đặt cho tên thụy tên đẹp là Nghĩa Vũ và sai lập đền thờ tại Thượng Xá. Đền thờ Nguyễn Xí được xây dựng từ năm Quang Thuận thứ 8 đời Lê 1467. Qua bao thăng trầm của thời gian và đạn bom của Pháp và Mỹ, đền thờ ngài vẫn uy nghi tồn tại và là di tích lịch sử của quốc gia, cách Cửa Lò khoảng hơn 2km. Theo Đại Việt thông sử, ông có 16 người con trai và 8 người con gái. Con cháu Nguyễn Xí về sau theo giúp nhà Lê trung dân suy tôn Nguyễn Xí là Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Củi không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha như một số sách đã nói mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn “mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn, không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phủ văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông.Ông Hoàng Mười giáng thế làm Lê KhôiMột trong những sự tích khác được lưu truyền là Ông Mười giáng thể làm Lê Khôi. Lê Khôi ? – 1445 là một trong những tướng lĩnh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và là công thần khai quốc nhà Lê sơ,Lê Khôi người làng Lam Sơn nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Ông là con trai Lê Trừ – anh thứ hai của Lê Lợi, tức là cháu gọi Lê Lợi bằng chú ruột. Hiện người ta vẫn chưa rõ ông sinh vào năm nào. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ đầu và lập được rất nhiều công 1427, ông cùng với nghĩa quân lập nên trận Khả Lưu. Lúc đó, tuy chỉ là một vị tướng nhỏ nhưng đã được mô tả như sau “Mình đeo bên trái một túi mũi tên, bên phải cũng một túi mũi tên, theo Vua ra trận. Trong trận Khả Lưu, ông cùng bọn Lê Sát xông lên trước, vây đánh và phá tan quân Minh, bắt sống được Đo Đốc giặc là Hoàng Thành, lại còn bắt được sĩ tốt của chúng nhiều không kể hết.”Năm 1427, ông hợp lực cùng Phạm Vấn chỉ huy một cánh quân, góp phần vào chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang quyết định chiến cục, kết thúc thắng lợi khởi nghĩa Lam Sơn. Ông cùng Phạm Vẫn đem hơn hai ngàn quân đi trợ chiến cho Lê Sát, đánh tan và bắt sống bọn tướng giặc là Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng mấy vạn tên giặc, quét sạch quân Ngô, và khôi phục Đông ĐôNăm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, Lê Khôi được ban chức Kì Lân Hổ Vệ Tướng Quân, quyền Hành Tổng Quản, hàm Nhập Nội Thiếu Úy, sau thăng hàm Tư Mã, được đem Kim 1430, Lê Khôi giữ chức trấn thủ Hóa Châu, vùng giáp với Chiêm Thành, giúp vùng này yên ổn, ấm no. Cùng năm này, ông đã đem quân tiếp ứng cho vua Lê Thái Tổ đi dẹp loạn Bế Khắc Thiệu ở Thái 1437, Lê Khôi được phong làm Nhập nội tư mã, Tham trị chính sự, kiểm quản Tây 1440, ông được thăng làm Nhập Nội Đô đốc. Sau, chưa rõ vì lý do gì, ông bị giáng 1443, ông được làm Nhập Nội Thiếu Úy, trấn thủ Nghệ 1445, thời Lê Nhân Tông, Lê Khôi đem quân tiếp ứng, giúp dẹp tan quân Chiêm Thành. Lê Khôi bị đau và mất ngày 3/5/1446 tại Núi Nam giới huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Nam Nhất thống chi viết về ông như sau “Ông là người độ lượng, nhân hậu, nhã nhặn, ít nói ít cười, từng theo Vua Lê Thái Tổ đi đánh dẹp lập được nhiều công lao”.Ông Hoàng Mười giáng thế làm Nguyễn Duy LạcMột trong những sự tích khác được lưu truyền là Ông Mười giáng thể làm Nguyễn Duy Lạc, danh tướng thời nhà Lê có đền thờ tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông được nhân thế hoá, phàm tục hoá thành Thái uý Vĩ quốc công, trở thành vị thần chính ở đền Xuân Am hay đền Đức Thánh Hoàng Mười, còn gọi là Mỏ Hạc Linh là một vị tướng tài có công lớn trong cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, hy sinh trong trận Âm Công đánh vào thành Lục Niên. Âm Công là một trận nghi binh làm voi giả, chiến thuyền giả. Ngài kéo quân đánh tập hậu, tả xung hữu đột làm cho quân Minh kinh hồn bạt vía. Ngài đã bị thương nặng, chỉ kịp phi ngựa về đến quê nhà thì mất. Triều đình lấy làm thương tiếc nên lấy đất Âm Công – quê hương Ngài để tưởng nhớ công ơn. Nhà Vua ban tặng cho Ngài 4 câu thơĐế thích long chương khai thái vậnThiên sinh thần võ dực hồng đồSinh bất hư sinh, sinh nghĩa đảmTừ thuỷ vô tử, tử trung làVua tặng sắc phong mừng vận đẹpTrời sinh tướng giỏi giúp non sôngSống chẳng sống thừa lòng nghĩa dũngChết mà không chết dạ can điểm về sự giáng thế của ông Hoàng MườiCó rất nhiều các sự tích cũng như quan điểm khác nhau về sự giáng thế của ông Hoàng Mười. Theo quan điểm của tác giả thì ông Hoàng Mười là hình ảnh hiện thân của nhiều thế hệ các vị anh hùng tài ba lỗi lạc khác nhau, là những vị có công với dân với nước, như Lý Nhật Quang, Nguyễn Xí, Lê Khôi, Nguyễn Duy Lạc, xét về tính logic chặt chẽ thì có lẽ lần giáng thế của ông Hoàng Mười làm Nguyễn Xí sẽ là có tính logic chặt chẽ nhất vì những lý do như sauThứ nhất Nguyễn Xi sinh ra ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, khác với hầu hết những vị khác là không được sinh ra trên mảnh đất Nghệ An. Chẳng hạn Lý Nhật Quang thì được sinh ra ở chốn kinh đô, nhưng sau này được giao quản lý vùng đất Hà Tĩnh và Nghệ An. Còn Lê Khôi được sinh ra tại mảnh đất Lam Sơn nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.Thứ hai Nguyễn Xí và Lý Nhật Quang cùng mất trên chính mảnh đất Nghệ An, khác với hầu hết những vị anh hùng khác là không mất trên mảnh đất Nghệ An mà mất ở những nơi khác. Chẳng hạn Lê Khôi bị mất tại Núi Nam giới huyện Thạch Hà, tỉnh Hà ba Nguyễn Xí mất vào ngày 30 tháng 10 năm Ất Dậu 18/11/1465 và đã được sử sách ghi lại, tức là ngài mất trong tháng 10, và tiệc của ông Hoàng Mười cũng nằm trong tháng 10. Trong khi đó những vị khác đều mất vào những ngày không thuộc tháng 10. Chẳng hạn như Lê Khôi bị mất ngày 3/5/1446, còn Lý Nhật Quang thì bị mất vào ngày 17/8/ chi tiết trên cho thấy quan điểm ông Hoàng Mười giáng thế làm Nguyễn Xí có tính logic chặt chẽ nhất. Tuy nhiên tác giả vẫn ủng hộ quan điểm rằng ông Hoàng Mười là hiện thân của nhiều vị tướng tài ba lỗi lạc khác nhau, chứ không chỉ bị bó hẹp trong duy nhất lần giáng thể làm Nguyễn giá Ông Hoàng MườiCùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thì phủ văn chương. Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đại chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá là những đặc sản của quê hương ông rồi cung văn tấu những điệu Hà Xứ Nghệ rất mượt mà êm bản Văn Ông Hoàng MườiTheo các tư liệu được tìm thấy, Tín Ngưỡng Việt đã sưu tầm được 1 bản văn Ông Hoàng Mười và các đoạn Thơ, Phú cùng những đoạn Cải Lương…Trích đoạnThanh xuân một đấng anh danh nổi tiếng khắp vùng Trời vai nặng gánh cương thường,Sông Lam sóng cả, buồm dương một nền đức Thuấn nhân Nghiêu,Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh Bích động lúc Bồng lai,Non nhân, nước trí mọi nơi ra vàoXem đầy đủ bản văn Ông Hoàng MườiĐền thờ Ông Hoàng MườiNgoài việc được thờ tại ban Tứ Phủ Thánh Hoàng thì Ông Hoàng Mười được thờ tại rất nhiều đền – phủ từ Bắc tới Nam. Tuy nhiên, nhắc đến Đền Ông Mười thì đầu tiên phải nói đến Đền Củi Hà Tĩnh, Mỏ Hạc Linh Từ Nghệ An và Đền Dinh Đô Ông Hoàng Mười Hà TĩnhĐền Chợ CủiĐền Chợ Củi, còn gọi là đền Hoàng Mười ở xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh nổi tiếng linh thiêng. Nơi đây hằng năm thu hút đông đảo khách thập hương vãn cảnh, cầu phúc Chợ Củi chính là nơi năm xưa di quan ông về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười. Soi mình bên dòng sông Lam hiền hòa, tựa lưng vào dãy núi Hồng Lĩnh, phong cảnh đền Chợ Củi hết sức hữu tình, thơ mộng. Bên cạnh sự linh thiêng, trang nghiêm, đền Chợ Củi mang trong mình một nét đẹp văn hóa Hạc Linh Từ – Nghệ AnNgôi đền được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê trên diện tích hơn 1ha ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay, đền có 3 toà chính Thượng điện, Trung điện và Hạ mộ Ông Hoàng Mười – Nghệ AnMộ đức thánh Hoàng Mười cũng nằm trong khu di tích Mỏ Hạc Linh Từ ở Xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên – Nghệ An. Tương truyền đây chính là lăng mộ của ông Nguyễn Duy Lạc – một hiện thân của Thánh Hoàng Mười. Trên án thờ có đắp thanh gươm và cây bút lớn vươn thẳng lên trời Dinh Đô Quan Hoàng Mười – Hà TĩnhNgày 23/11/2014, Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười đã chính thức khánh thành tại phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Cả Dinh Đô Quan Hoàng Mười trong những thập niên qua đã bị phế tích. Theo tài liệu được cơ quan chuyên môn cấp trên cung cấp và những ý kiến của các cụ cao tuổi trong địa phương kể lại, Đền Cả Dinh Đô Quan Hoàng Mười được xây dựng vào khoảng năm 1060 thời Nhà Lý. Đền tọa lạc vùng ngoài đê La Giang, tại ngã ba giao nhau giữa Kênh nhà Lê, Sông La và Sông Lam. Đền còn có tên gọi của địa danh đó là “Mỏ Hạc Linh Từ”.Các câu hỏi thường gặp về Ông Hoàng MườiÔng Hoàng Mười là ai?Ông Hoàng Mười là vị thánh Hoàng nổi danh tai hoa, sang trọng, văn võ kiêm toàn. Huyền tích về Ông Mười trong dân gian có nhiều, tương tuyền ông quê Nghệ An, có nhiều công lao vào dân, với Ông Hoàng Mười thờ ai?Đền Ông Hoàng Mười thờ chính Quan Hoàng Mười. Nơi đây còn thờ các vị Phúc Thần như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu và cácvị Thánh Tứ Phủ, Song Đồng Ngọc Nữ, Lê Khôi, Quận công Trịnh Trung,…Người có căn Ông Hoàng Mười?Người có căn Ông Hoàng Mười thường là người hào hoa phong nhã, tâm hồn bay bổng, giỏi thi phú văn chương, có đường công danh rộng mở, tiền tài xán lạn, thường đỗ đạt làm quan to chức trọng có uy đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Ông Hoàng viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệuSách Tín Ngưỡng Tam Tứ Phủ và Thờ Thánh ở Việt Nam – Biên soạn TS Bùi Hùng ThắngXin trân trọng cám ơn!Tham khảo thêmXem thêm thần tích Thập Vị Ông HoàngÔng Hoàng CảÔng Hoàng ĐôiÔng Hoàng BơÔng Hoàng TưÔng Hoàng NămÔng Hoàng LụcÔng Hoàng BảyÔng Hoàng Bắc QuốcÔng Hoàng BátÔng Hoàng ChínÔng Hoàng Báo Đền Ông Hoàng Mười nghe tên chắc các bạn cũng đã biết ngôi miếu này thờ ai rồi phải không? Có rất nhiều truyền thuyết xoay quanh Ông Hoàng Mười, sử sách xưa đã ghi lại, ông là con trai của Bát Hải Động Đình Vương, lịch là một. Vị tướng giỏi thời Lê là Lê Khôi có công đánh tan quân Minh xâm lược. Hãy tìm hiểu về đền ông Hoàng Mười trước khi có ý định ghé thăm nơi đây. Giới thiệu về Đền Ông Hoàng Mười Đặc điểm nổi bật của đền Ông Hoàng Mười Đền Ông Hoàng Mười Đền ông hoàng mười được xây dựng từ năm 1634 từ thời Hậu Lê, trên diện tích hơn 1ha tại thôn Xuân Am, thị trấn Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên. Cho đến nay nó đã được trồng nhiều lần. Chùa gồm 3 tòa chính Thượng điện, Trung điện và cuối cùng là Hạ điện. Hàng năm có rất nhiều lễ hội hấp dẫn thu hút một lượng lớn khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Đền Ông Hoàng Mười ở Hà Nội, Nghệ An là một trong những địa điểm du lịch tâm linh vô cùng nổi tiếng ở ven biển miền Trung. Sự tôn nghiêm của ngôi chùa này chính là điểm thu hút du khách thập phương đổ về đây tham quan, dâng hương và kinh thành. Trái tim cầu nguyện. Hiện nay, Đền Ông Hoàng Mười không chỉ thờ Quan Hoàng Mười mà còn có các vị phúc thần khác như Thánh Mẫu, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Song Đồng Ngọc Nữ, Lê Khôi và công chúa Trịnh Trung. Vị trí, địa điểm của Đền Ông Hoàng Mười Đền Ông Hoàng Mười có địa chỉ chính xác tại làng Xuân Am, thị trấn Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Đền Ông Hoàng Mười nằm cách trung tâm thành phố Vinh khoảng 7 km. Đền Ông Hoàng Mười tọa lạc tại thành phố Vinh. Nơi có phong cảnh rất đẹp. Dòng sông Cồn Mộc uốn khúc quanh chùa trong xanh, đồng ruộng xanh ngút ngàn. Phía sau chùa là núi Con Mèo và núi Dũng Quyết. Quan trọng nhất là ngôi chùa cách xa ngôi làng, được bao quanh bởi những ngọn núi đẹp mê hồn, cây cối tươi tốt tạo nên vẻ đẹp yên bình trong cảnh quan. Kiến trúc đền ông Hoàng Mười Đền Ông Hoàng Mười Theo sử sách, chùa được xây dựng vào thời Hậu Lê. Ngôi chùa trải qua những thăng trầm của lịch sử và bị tàn phá. Năm 1995, chùa được chính quyền tỉnh Nghệ An trùng tu và trở thành điểm du lịch văn hóa. Đây cũng là một điểm du lịch nổi tiếng ở Nghệ An Hà Tĩnh thu hút rất nhiều du khách đến tham quan. Kiến trúc đền Ông Hoàng Mười Nghệ An gồm có Tam quan, Trung thiên đài, Cửa quan, Bệ hạ, Bệ hạ. Bên trong hiện còn lưu giữ hệ thống tượng Phật Pháp, 21 bức hoành phi chữ Hán và các di vật có giá trị lịch sử, nghệ thuật cao. Khu đền thờ Quan Hoàng Mười bao gồm ba cung Thượng cung, Trung cung và Hạ cung. Công trình trùng tu thể hiện đặc điểm kiến ​​trúc công trình tâm linh thời Nguyễn. Vật liệu xây dựng chùa đều bằng gỗ, được sơn son và chạm trổ tinh vi với các họa tiết rồng, lân, phượng. Nhìn từ bên ngoài, đền Quan Hoàng Mười Nghệ An nổi bật với hình ảnh mái ngói chạm trổ rồng. Ba cổng liên tiếp, du khách có thể khám phá chúng bằng cách đi vào. Lịch sử của đền ông Hoàng Mười Đền Ông Hoàng Mười Theo sử sách Nghệ Tĩnh, ông được coi là Lê Khôi, một vị tướng tài ba, cháu nội và phò tá Lê Lợi trong cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh, sau trở thành Thượng hoàng ba triều. Lê Gia. , lệnh bảo vệ Khâm Sai Thiết Thủy Lục Chu Đình, bảo vệ Đại tướng quân. Có bản chép rằng ông giáng trần là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con vua Lý Thái Tổ, trấn thủ xứ Nghệ, nhưng truyền thuyết được nhiều người biết đến nhất có lẽ là Sử ký Ông Muội Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới triều. đời vua Lý Thái Tổ. Vua Lê Thái Tổ có công phò vua đánh tan quân Minh xâm lược, sau được cử đi đánh Nghệ An, Hà Tĩnh cũng là quê hương của ông, ông được vua Lê Thái Tổ trấn giữ. Tại đây ông luôn quan tâm chăm lo đến đời sống của người dân, tương truyền có lần một trận bão làm sập hết nhà cửa nên ông cho quân vào rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi ông bắt tay vào làm ruộng. một cửa hàng cứu trợ. Khi đang chèo thuyền xuôi dòng dưới chân núi Hồng Lĩnh thì một cơn bão nổi lên nuốt chửng thuyền của ông nên ông rẽ phải xuôi dòng sông Lam. Trong lúc mọi người lo tang lễ, khi trời quang mây tạnh, mây vàng, anh bỗng thấy xác chị nổi trên mặt nước nhẹ như hư không, mặt vẫn hồng hào, mát rượi như người đang ngủ. khi anh ấy đến. Đột nhiên vùng đất xung quanh bao quanh và bao phủ hài cốt của anh ta. Lúc đó trên trời có mây ngũ sắc kết thành hình con hồng mã có người nói là chim đỏ, trên trời có mây. binh lính. Tướng quân xuống đón ông về trời. Về sau, ông làm Tổng đốc Nghệ Tĩnh, trú đóng tại Nghệ An Vinh. Nhân dân tôn ông là Ông Hoàng Mười còn gọi là Ông Mười Củi. không chỉ vì ông là con thứ mười của cha như một số sách đã nói, mà còn vì ông là người thanh liêm, đức độ, văn võ song toàn Thập nghĩa là đầy đủ, trọn vẹn, chứ không phải ông không phải là người xông pha trận mạc nhưng ông cũng là người rất nho nhã, giỏi văn thơ, được thiên hạ ngưỡng mộ không chỉ mà còn được các tiên trên trời, tiên nữ thầm thương trộm nhớ. Sau khi thành triều, ông Mười đã ban tất cả 21 sắc phong hiện còn lưu giữ trong chùa. Lễ hội Đền Ông Hoàng Mười Toàn cảnh lễ hội đền Ông Hoàng Mười Lễ hội Đền Ông Hoàng Mười diễn ra từ ngày 8 đến 10-10, nhưng trước đó, vào tháng 9 và 10, trung bình mỗi ngày chùa đón hàng trăm lượt khách. Phần lớn khách thập phương vẫn là khách từ các tỉnh phía Bắc như Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn, Ninh Bình… Nhiều du khách từ xa đến chờ làm lễ nên phải thuê phòng trước cửa chùa. Lễ hội Đền Ông Hoàng Mười gồm phần nghi lễ và phần hội. Phần nghi lễ gồm Lễ Khai ấn, Lễ rước Bảng, Sắc lệnh từ làng Xuân Am về Chùa, Lễ Truyền tin, Lễ Đại tế và cuối cùng là Lễ tạ ơn. Phần hội gồm các trò chơi dân gian được trình diễn. được phát động trong hai ngày mùng 9 và mùng 10 để khuyến khích nhân dân huyện Hưng Nguyên tham gia như giải bóng chuyền cộng đồng B., nhảy bao bố, kéo co, chọi gà, giao lưu văn nghệ. .. Cùng với các lễ hội trên địa bàn tỉnh, Lễ hội Đền Ông Hoàng Mười có vị trí hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh của nhân dân và nằm ở nơi có phong cảnh đẹp, vừa là trung tâm, vừa nối liền với núi. by Lâm Viễn Quyết. Khu du lịch Đền Ông Hoàng Mười ngày càng thu hút đông đảo người dân trong và ngoài tỉnh đến dâng hương, cầu bình an. Với sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với Quan Hoàng Mười và nét độc đáo về cảnh quan, môi trường và quần thể di tích. từ Phượng Hoàng – Trung Đô, nơi trước đây vua Quang Trung chọn đóng đô. Mọi thứ đã được kết hợp thành một hình ảnh sống động, với núi non, dòng sông và cánh đồng. Ở các cánh đồng và thị trấn đều có đền thiêng thờ Đức chúa Hoàng Mười. Năm 2002, Đền Ông Hoàng Mười được UBND tỉnh Nghệ An xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Đền Ông Hoàng Mười Quy trình tổ chức lễ hội đền Ông Hoàng Mười Hiện nay, Đền Ông Hoàng Mười Thường tổ chức hai lễ hội chính Lễ hội rước Sắc vào ngày 14 tháng 3 âm lịch và giỗ ông Hoàng Mười vào ngày 10 tháng 10 âm lịch. Riêng Lễ hội rước Sắc vào đền sẽ được tổ chức vào ba ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch. Ngày 14 tháng 3 âm lịch Buổi sáng Giao thừa Chiều Đoàn rước xuất phát từ nhà thờ họ Nguyễn tiến về đền Ông Hoàng Mười. Tối Lễ tế Tổ Ngày 15 tháng 3 âm lịch Buổi sáng Lễ dâng hương Chiều Hát Châu Văn Tối Giao Thừa Ngày 16 tháng 3 âm lịch Sáng Đoàn rước thuyền di chuyển từ đền Ông Hoàng Mười về nhà thờ họ Nguyễn làng Xuân Am. Lễ giỗ ông Hoàng Mười chính lễ được đền tổ chức vào các ngày 9, 10, 11 tháng 10 âm lịch. Ngày 9 tháng 10 âm lịch Chiều Rước từ nhà thờ họ Nguyễn về đền Ông Hoàng Mười. Tối Lễ tế thần Ngày 10 tháng 10 âm lịch Buổi sáng Lễ tưởng niệm, dâng hương. Chiều Hát Châu Văn. Tối Lễ tạ ơn Ngày 11 tháng 10 âm lịch Chiều Rước từ nhà thờ họ Nguyễn về đền Ông Hoàng Mười. Danh sách đồ lễ cần chuẩn bị khi hành lễ tại đền ông Hoàng Mười Tổng hợp các lễ vật mà mọi người cần chuẩn bị đầy đủ để khấn vái Đền Ông Hoàng Mười bao gồm những điều sau đây Một mâm xôi, một đĩa thịt gà, một chai rượu và năm ly rượu, một chai nước, một ít tiền mặt, vài que hoặc thẻ hương. Một đĩa vàng có một quả quýt vàng 5 dây. Một mâm gồm hoa, quả, cau, trầu, tiền dương, chai nước. Mâm cỗ có cau, trầu, tiền, tiền dương. Một mâm cỗ có một dây vàng trắng, một bầu rượu, năm chén rượu, tiền vàng, nhang, tiền, một đĩa muối, một đĩa gạo, năm quả trứng vịt lộn và một bó hoa để cúng Quan Ngũ Hổ. Bài khấn Ông Hoàng Mười Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh Con lạy Tứ phủ Khâm sai Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu Con lạy cộng đồng các Giá, các quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể. Con lạy quan Chầu gia Hương tử con là… Tuổi… Cùng đồng gia đại tiểu đẳng, nam nữ tử tôn ngụ tại… Hôm nay là ngày… tháng… năm … âm lịch Tín chủ con về Đền…. thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khỏe dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn. Phục duy cẩn cáo! Bài khấn Nôm Ông Hoàng Mười Con tấu lạy tam vị đức vua cha. Tấu lạy hội đồng thánh mẫu. Con tấu lạy chư vị đình thần bốn phủ. Tấu lạy đức thánh Trần triều, tấu lạy hội đồng nhà Trần Con tấu lạy tứ phủ chầu bà ba tòa quan lớn hoàng triều hoàng quận, tấu lậy hội đổng quan hoàng. Phương tiện di chuyển đến đền Ông Hoàng Mười Đối với khách hành hương, thời gian tốt nhất để đi lễ vía Bà Chúa Hoàng Mười là dành ít nhất 2 ngày 1 đêm để thăm viếng và lễ bái, tùy theo sức khỏe, thời gian và kinh phí. Lựa chọn phương tiện vận chuyển. đến Đền Ông Hoàng Mười. Di chuyển bằng đường hàng không Du khách đi từ Sân bay Nội Bài HAN đến Sân bay Vinh VII. Đây là phương án tiết kiệm thời gian nhất vì thời gian bay đến Vinh chỉ mất 1 tiếng. Sau đó đi taxi đến khu vực Đền Ông Cách Đền Củi Hà Tĩnh khoảng 10 km và Đền Ông Nghệ An 2 km. Chi phí cho chuyến đi từ – VND/lượt. Lưu ý Mỗi ngày chỉ có 1 đến 2 chuyến, du khách phải đặt vé trước 1 đến 2 tuần. Di chuyển bằng đường sắt Đi từ Ga Hà Nội đến Ga TP Vinh. Thời gian di chuyển là 6 tiếng với giá vé – đồng/chiều. Nó phụ thuộc vào hạng ghế. Sau đó, bắt taxi để đến chùa. Di chuyển bằng xe khách Du khách đi xe khách từ bến xe Nước Ngầm đến thành phố Vinh hoặc Hà Tĩnh, thời gian di chuyển từ 5 đến 7 tiếng. Sau đó bạn tiếp tục bắt taxi đi chùa. Trên đường đi Hà Tĩnh, du khách liên hệ trực tiếp với lái xe để dừng chân tại Đền Củi. Chi phí đi lại từ – đồng/chiều. Di chuyển bằng ô tô riêng Khoảng cách từ Hà Nội đến TP Vinh khoảng 330 km, mất khoảng 5 tiếng tùy mật độ giao thông. Du khách đi thẳng đường cao tốc Pháp Vân ra quốc lộ 1A, đến đền Ông Hoàng Mười gần chân cầu Bến Thủy 2. Trên đây là những chia sẻ về đền thờ ông Hoàng Mười. Ngôi chùa có tuổi đời hơn 400 năm được gìn giữ qua nhiều thế hệ với vẻ đẹp độc đáo. Nếu bạn muốn chọn một địa điểm văn hóa tâm linh phù hợp để tham quan, du lịch cùng người lớn tuổi như ông bà, người già, Đền Ông Hoàng Mười là một trong những lựa chọn tốt nhất hiện nay. Truyền thuyết Quan Hoàng MườiSự tích Thánh ông Hoàng MườiTrong số Thập vị quan Hoàng, ông Hoàng Mười là người giáng trần để giúp dân phù đời. Vậy truyền thuyết về quan Hoàng Mười như thế nào? Mời bạn đọc cùng tham khảo bài viết dưới đây của để có thể hiểu rõ hơn về ông Hoàng Mười Thế Ông Hoàng MườiTên húy Ngài Nguyễn XíĐền thờ chính Hà Tĩnh, Nghệ AnÔng Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Vì thế, ông Hoàng Mười còn được nhân dân xứ Nghệ tôn vinh là “Đức thánh minh”, là một vị quan nằm trong hệ thống điện thần thờ mẫu tứ phủ ở Việt có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh cũng chính là nơi quê nhà. Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tích ông Hoàng MườiTrong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã có bản nói là xích điểu và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Củi không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha như một số sách đã nói mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn “mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn, không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông.Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương. Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá là những đặc sản của quê hương ông rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm hiểu thêm về Sự tích ông Hoàng CảSự tích ông Hoàng ĐôiSự tích ông Hoàng Bơ Quan Hoàng BaĐền thờ chính của ông Hoàng MườiHiện nay có hai ngôi đền thờ Ông Hoàng Mười đó là Đền Củi tại xã Xuân Hồng; huyện Nghi Xuân; tỉnh Hà Tĩnh và Đền Ông Hoàng Mười tại Huyện Hưng Nguyên – Nghệ An. Hai ngôi đền chỉ cách nhau bởi dòng sông Lam nước xanh như mắt ngọc. Đứng bên đền bên này; có thể nhìn thấp thoáng đền bên kia qua lung linh của dòng sông mơ mộng. Chúng ta cùng tìm hiểu về hai ngôi đền Chợ Củi hay còn gọi là Đền Củi, được cho là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Xuân Hồng; huyện Nghi Xuân; tỉnh Hà Tĩnh. Theo nhiều tài liệu cho rằng thì đền Củi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, còn Ông Hoàng Mười chỉ là phối thờ. Có thể thấy tại Đền Củi; cung cấm là thờ Tam Tòa Thánh Mẫu; còn cung Ông Hoàng Mười được đặt ở ngoài. Tuy vậy; Đền Củi vẫn đông đảo con nhang; đệ tử đến để lễ Ông Mười; bởi có lẽ đền Củi đã tồn tại đã lâu trong tiềm thức của người Việt Nam hơn đền Ông Hoàng Mười Hưng Nguyên mới được tôn tạo lại từ dấu tích hoang tàn trong thời gian gần thờ ông Hoàng Mười tại Đền Chợ CủiĐền Ông Hoàng Mười tại Hưng Nguyên; Nghệ An cách đền Củi 2km theo đường chim bay và khoảng 6km theo QL1A. Hai ngôi đền chỉ cách nhau bởi dòng sông Lam nước xanh như mắt ngọc. Đứng bên đền bên này; có thể nhìn thấp thoáng đền bên kia. Và tại đền Ông Hoàng Mười Hưng Nguyên mới là đền lưu giữ đến 21 đạo sắc phong về Quan Hoàng Mười. Điều đó có thể minh chứng Đền Quan Hoàng Mười Hưng Nguyên mới được coi là đền thờ chính của Quan Hoàng Mười – Quan Trấn thủ Nghệ 10/10 âm lịch hàng năm là ngày tiệc chính ông Hoàng Mười - Nghệ AnNgày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông cờ quạt bút sách… để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ thủ Nghệ An ông Hoàng MườiVô chùa niệm phật Quan ÂmPhật ban bốn chữ Minh – Tâm – Thiện – TàiTrong thời học phép Như LaiĐêm đêm luyện tập văn bài sử kinhTiêu dao đi dưỡng tang tìnhThơ tiên một túi sách phật kinh ngàn từKhi phong nguyệt lúc lại bi từSớm xem hoa nở, tồi chờ trăng lênKhi tiêu lĩnh lúc lại non bồngCành cây mắc võng dòng sông ngự thuyềnThăng Long kén khách lâm thuyềnNam thanh nữ tú mình quyền bóng ôngPhong quang đẹp ý ông HoàngKhác nào t nào thu cúc, xuân loan tứ tuầnVề huyện Kim Bảng làm quan Phủ GiầyHát saiThỉnh bóng ông Mười hôm nayThỉnh bóng ông Mười đèn nhang khuya sớmSớm hôm phụng thờ, trong kinh có chữ nam môÔng Mười đề thơĐêm thanh ngoạn cảnh vườn đàoBút tiên nghiên ngọc đề vào là thơ tiênBút phát linh linh bút sa tà tinhÔng Mười đi thất bộ đề bài thơ Lý ĐỗĐộ cho trăm họ an lànhÔng cầm bút tiên ông họa vần thơ tiênHọa ra bốn chứ Khang – Ninh – Thọ – TrườngBút pháp linh linh rượu nhập thầnHoa khai quả kết vạn cảnh xuânÔng Mười giáng bút an muôn họTrăm họ ông ca cổ thánh thầnThơ chuốc rượuRượu đào xin ông Mười nhấp chén cho sayTrăm hoa giao kết mừng ngày tiệc vuiTính tình tay tiên rót chen rượu đàoDâng nhất tuần sớ, dâng lên cũng MẫuDâng lên bệ ngọcCác cô dâng mời rước ông Mười xơiÁ xơi rước ông Mười xơiDâng nhị tuần á tính tình tay tiênRót chén rượu đào dâng lên cũng mẫuDâng lên bệ ngọcCác cô dâng mời là mời rước ông Mười xơiTam bôi rót chén rượu đàoDâng lên cung Mẫu dâng lên Bệ NgọcCác cô dâng mời là mời rước ông Mười xơiÁ xơi rước ông Mười xơiNgâm thơĐất lề quê thói Nghệ An có miếng trầu cau đậuĐể kính ông Hoàng MườiChí anh hùng ra tay dựng nướcÔng Mười đi tới đâu thì giặc phải tan ngayViệt Nam còn ghi chép sử nàyCũng bao địa ngọc đêm ngày khói nhangKhi hội nghị luận bàn việc nướcÔng Hoàng Mười mang tài thao lược để hiến dângLĩnh sắc rồng ông Hoàng Mười khiển tướng điều quânGươm thiêng ba thước, ngựa hồng ông Hoàng Mười xông Mười nhủ rằng các ghế có đi ngược về xuôiCó biết đền thờ ông lập ở nơi môĐền thờ ông Mười lập ở chốn kinh đôQua cầu Bến Thủy bên bờ sông LamCũng có khi ông lên ngàn xuống biểnLúc trở ra về thì phủ tía lầu sonCũng có khi ông Mười ngồi ngắm ánh trăng trònKhi xem hoa nở, khi chờ trăng lênHò ơ ơ ơ hòĐò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ, đò từ Đầm Đá tới phủ Văn LâuNghiêng nghiêng nắng ngả về chiềuCon đò nhỏ đưa ghế ông về ngắm cảnh Nghệ AnSông Lam – Hồng Lĩnh đẹp như tranhTạo hóa xưa nay đã đắp thànhMuôn thủa núi sông còn bền vữngĐất Nam Đàn Nghi Lộc vẫn còn ghiVậy có thơ rằngHoa đào rơi rắc lồi thiên thaiXui tiễn oanh đưa luống ngậm ngùiNữa năm tiên cảnh một bước trần aiƯớc cũ duyên tiên có thế thôiĐá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôiCánh hạc bay lên vút tận trờiNgõ hạnh vườn đào xa cách mãiNgàn năm thơ thẩn bóng trăng ông MườiƠ Ơ Ơ chứ nói rằng trong đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt, tiếng ông Mười lẫm liệt ngàn xưa, cũng có khi vung gươm lên ngựa đề cờ, ra tay gìn giữ cõi bờ Việt namƠ Ơ Ơ cũng có khi ông Mười hội nghị luận bàn việc nướcÔng cũng đem tài thao lược để hiến dâng, lĩnh sắc rồng ông Mười hiến tướng, điều quân, gươm thiêng, ba thước ngựa hồng ông Mười sông phaƠ Ơ Ơ cũng có phen ông Mười lên rừng, xuống biển, khi chở ra về phủ tía lầu son, cũng có khi ông Mười ngồi ngắm bóng trăng tròn, khi xem hoa nở khi ông Mười ngồi chờ trăng lênƠ Ơ Ơ ông Mười nói rằng các ghế thanh đồng đã đi ngược về xuôi, có biết đền ông Hoàng Mười lập ở nơi đâu, đền thờ ngài lập ở kinh đô, gần cầu Bến Thủy bên bờ sông LamƠ Ơ Ơ biết ông Mười ra ông cho núi ngọc lại non vàng, không biết đến ông Hoàng Thập dù có của cải ông cũng đổ ngoài biển đôngƠ Ơ Ơ Biết ông Mười ra ông cho núi bạc non vàng, không biết đến ông Hoàng Thập dù có của cải ông cũng để nhỡ nhàng mặc aiƠ Ơ Ơ Ông Mười hỏi rằng dù ghế của ông có đi mô đi tê, nhớ ngày kỷ niệm phải về bắc ghế hầu ôngƠ hò là hò ơi, trong xứ Nghệ vui nhất có chợ Vinh, đẹp nhất có cầu Bến Thủy, tối anh linh có đền ông Hoàng MườiƠ hò là hờ ơi, nước sông Lam vừa trong vừa đục gạo chợ chùa vừa trắng vừa trong, ngày hôm nay ông Mười loan giá về đông, điều lành điều dữ, ông phán cùng trần gianƠ hò là hò ơi, ngày hôm nay ghế con xin ông trăm năm nay đắc lộc sai tài, kim ngân sớ diệp để trình ngày hôm nayƠ hò là hò ơi, ông chít khăn điều mặc áo hoàng anh, phàm trần đố ai họa được bức tranh ông Mười ngồiƠ hò là hò ơi, biết ông Mười ra ông cho sung sướng cả cuộc đời, ông cho cầu lên ước được trong gia chung được thuận thanh nhàn ông Mười dạo cảnh sông Lam, Hoàng bắt cácO trong phủ ngâm thơ sông Lam ơ ơ ơ ơ hò ơ ờ hờ ơ ơ ơ ơDòng sông Lam trăng nước lững lờ, yên tâm đón khách đưa về đất Nghệ AnLâng lâng i i lâng lâng rũ sạch ba miềnMột ngày họ Trần được làm đệ tử, cũng lên duyên nợ nhiềuXanh xanh tỏa đá mới phủ rêu2Ai là người dày phúc mới được theo đức Hoàng MườiHò ơi, ơi hò, anh linh lưu dấu muôn đời đúng đó anh linh lưu dấu muôn đời, Nghệ An mở rộng đón những người hữu duyên, hò là hò ơi ơi rồng còn đợi bến sôngTrở các thanh đồng đi lễ hội trong Nghệ AnCho dù trăm nhớ ngàn thươngVì đòng nên ông phải vấn vương nơi cõi trầnHò HuếNay ông Mười về giáng phúc trừ taiĐồng gia tín chủ ai ai cũng thọ trườngMuối ba năm mối kia còn mặn, gừng chín tháng gừng vẫn còn cayGhế ông tình nặng nghĩa dày, xa xôi tận trong xứ Nghệ ông vẫn vô đây ông ngự đồngDòng sông Lam bên lở bên bồiDấu thiêng ông Mười để cho người đời phải khói nhangDù cho cách trở sông LamNgày nay có cầu bến Thủy bắc ngang sang đôi bờTrăng bao nhiêu tuổi trăng giàGhế ông năm nay bao nhiêu tuổi mà vẫ hào hoa đẹp như ngày nàoÔng đã chứng tâm tiếp lộc cho thanh đồngÔng cho ghế ông cầu từ hôm nay nên cầu nên ước đượcCho gia chung được thuận hòaÔng cho ghế ông buon bán gần xaÔng tiếp lọc gần rồi lại tiếp lộc xaLý qua cầuNghệ An danh nức danh ông MườiĐai vàng khoác áo vàng anh, về đây ông ngự đồngLại được cung văn dâng lời ca tiếng thơ cung đànCầu mong quan lớn chứng tâm độ cho dân chúngVui sông bình an giầu sang hết gian nan khỏi ách cơ hànLý Mỹ HưngTrong vùng khu tư ông Mười nức danh tiếng đồnCầm quân giết giặc giữ giang sơn nước Nam thanh bìnhGiặc ngoại xâm hồn tan phách tánÔng đi tới đâu chúng dân ra đón ôngTiếng thơm ông Mười đời sau còn hương khóiChúng con nguyện cầu ông an tài tiếp lộcĐường vô xứ Nghệ quanh quanh qua cầu bến thủy ơi người ơiMười hai cô tố nữ theo hầuTrâm hoa trâm hoa cài tóc khăn nhiễu tàu ông vắt vaiĐầu lược dắt chân dậm đôi văn hàiCô cả dấng ông điếu ngự, ông bắt cô nàng hai đi theo hầuCô nàng ba gối xếp theo sau, đất lề quê thóiCô tư têm trầu rước ông Mười xơiCô nàng năm dâng đóa gương soiCòn cô nàng sáu đứng bên ngoài rót rượu hầu ôngCô nàng bẩy dâng đóa hoa hồngCòn cô nàng tám phò chiếc kiệu rồng rước ông Mười lênCô nàng chín yểu điệu ai tày, tiếng tiêu cô thổi làm đầy vơi lòng HoàngCô nàng mười thắt dải lưng hồng hai tay dâng một đôi dày để hầu ôngCòn đôi cô múa lượn bài bôngMười hai các cô tố nữ hầu giá đôi bên ông rõ ràngCờnNghe thương hội nghị quần tiênĐược tin ông Mười tới thiên duyên trạnh lòngVân tiên mượn cánh chim hồng i i iXin người soi tỏ tức lòng gió giăngNhịp cầu ô đem bắc sông Ngan i i iCầu ô đem bắc sông Ngân, Hoàng ngồi trong cung quảngKìa ngồi trong cung quảng, đêm xuân mơ màngBóng trăng soi tỏ canh trường i i iĐã cam tấc dạ tuyết sương reo hòThủy tiên dìu dắt đón mời i i iBấy lâu khao khát đầy vơi sao đànhVượt bể đào lên tới ngàn xanh i i iĐường xưa cảnh cũ nặng tình nước nonTrúc xinh cô quế cũng giòn i i iThơ đỗ bộCõi trần mở tiệc mừng vui đảng tiệc vềNhớ đức Hoàng người giáng sinhHọa vần tho kính chúng thánh minhPhong hoa tuyết nguyệt phẩm bình mấy chươngNgẫm câu thế sự vô thường i i iTấc son mượn nước cành dương tới nhuầnVắng hoàng vắng cà mùa xuân i i iNhớ hoàng vì nước vì dân vì đờiThế gian nhớ miệng hoàng cười, nhớ khăn hoàng chít, nhớ lời truyền banKhi phó cát lúc đồi ngangNon kinh vó ngựa rậm ngàn tiêu giaoĐường đường cung kiếm anh hàoTúi thơ bầu rượu sớm chiều thênh thangHèo hoa trẩy hổi thiên hương i i iChấm đồng nhận lính khắp miền đông tâyKhi nương gió lúc lại se mây i i iKhi rung khánh ngọc lúc lay chuông vàngHoàng về gối xếp ai mang i i iHèo hoa anh vác ngựa Hoàng ai trôngLệnh truyền cô quế cô hồng i i iHèo hoa gối xếp đèn lồng mang tayLan lan huệ huệ xếp hàngDóng xe dóng ngựa lên đường vân duThuyền ai thấp thoáng chèo đưa i i i iKinh kỳ nhã nhạc hoàng về Nghệ AnLệnh truyền bát vạn hùng binhKiệu vàng tám tía rước Hoàng về Nghệ AnHy vọng bài viết này cung cấp thêm nhiều thông tin hữu ích về Tứ Phủ Quan Hoàng trong Đạo Mẫu Việt Nam, di sản văn hóa được UNESCO công nhận. Ngoài ra mời các bạn tìm hiểu thêm về Giới thiệu sơ lược về thân thế Thập nhị Thánh Cô trong Tứ phủ Thánh Cô

hội ông hoàng mười